Hội Nhập Kinh Tế Tự Động Là Gì

Hội Nhập Kinh Tế Tự Động Là Gì

Thủ tướng Chính phủ: Phải xây dựng và phát huy được cơ chế để theo dõi, đôn đốc, rà soát thúc đẩy triển khai các thỏa thuận hợp tác mà ta đã ký kết với các nước - Ảnh: VGP

Thủ tướng Chính phủ: Phải xây dựng và phát huy được cơ chế để theo dõi, đôn đốc, rà soát thúc đẩy triển khai các thỏa thuận hợp tác mà ta đã ký kết với các nước - Ảnh: VGP

Cần phải có lộ trình, kế hoạch để triển khai hiệu quả, nghiêm túc, đầy đủ các thỏa thuận và cam kết quốc tế

Khẳng định nhiều nội dung lớn, nguyên tắc và phương châm chỉ đạo của Nghị quyết 22 vẫn còn nguyên giá trị. Tuy nhiên thực tiễn mới đặt ra một số yêu cầu, nhiệm vụ mới trong triển khai hội nhập quốc tế thời gian tới. Thủ tướng Chính phủ đề nghị Ban Chỉ đạo tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện Đề án theo một số định hướng lớn sau đây:

Hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới phải bám sát và phục vụ hiệu quả cho chủ trương xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục thực hiện xóa quan liêu, bao cấp, thực hiện đa thành phần, đa sở hữu.

Cùng với đó thực hiện đường lối độc lập tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa, là bạn bè tốt, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; đưa hội nhập thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ giữ vững môi trường hòa bình ổn định, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Sau 10 năm hội nhập quốc tế, nước ta đã mở rộng về lượng, tham gia vào nhiều tầng nấc hội nhập khác nhau cả song phương và đa phương. Đây là thời điểm phải tạo ra được các bước phát triển mới về chất, tranh thủ hiệu quả các xu thế mới về CMCN 4.0, về chuyển dịch, tái sắp xếp các chuỗi cung ứng, các mạng lưới FTAs mà ta đã tham gia, các quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện để đưa được đất nước vào vị trí tối ưu trong cục diện quốc tế mới và tranh thủ tối đa các nguồn lực cho phát triển đất nước.

Cần phải có lộ trình, kế hoạch để triển khai hiệu quả, nghiêm túc, đầy đủ các thỏa thuận và cam kết quốc tế. Phải xây dựng và phát huy được cơ chế để theo dõi, đôn đốc, rà soát thúc đẩy triển khai các thỏa thuận hợp tác mà ta đã ký kết với các nước, cả song phương và đa phương trên tinh thần đã cam kết là phải thực hiện, đã thực hiện là phải có kết quả.

Hội nhập trên các lĩnh vực phải gắn kết chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau

Qua những thành tựu và hạn chế, có thể đúc kết một số bài học kinh nghiệm cần quán triệt trong triển khai hội nhập thời gian tới:

Hội nhập quốc tế phải là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị; phải nỗ lực tạo các điều kiện thuận lợi hơn về cả cơ chế, chính sách và nguồn lực để phát huy vai trò trung tâm của người dân và doanh nghiệp.

Giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện và hiệu quả; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nội lực là chiến lược, cơ bản, quyết định, lâu dài, ngoại lực là quan trọng, đột phá. Hội nhập quốc tế phải là động lực quan trọng để đổi mới và phát triển. Gắn kết chặt chẽ quá trình hội nhập quốc tế với việc nâng cao năng lực tự chủ, sức cạnh tranh, sức chống chịu và khả năng thích ứng của đất nước ta.

Phải nắm chắc tình hình, bối cảnh quốc tế và nhu cầu phát triển trong nước, xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo. Trong triển khai hội nhập quốc tế phải nhanh nhạy, chủ động, kịp thời, với tinh thần dám nghĩ dám làm, quyết liệt hành động vì lợi ích quốc gia - dân tộc; "dĩ bất biến, ứng vạn biến"; tập trung nguồn lực, có trọng tâm trọng điểm, xác định rõ nhiệm vụ ưu tiên và lộ trình triển khai để đạt các kết quả thực chất, cụ thể.

Hội nhập trên các lĩnh vực phải gắn kết chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, triển khai nhịp nhàng, đồng bộ, trong đó hội nhập kinh tế vẫn là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế.

Để tạo sự chuyển đổi về "chất" cho hội nhập quốc tế, yếu tố nền tảng là xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu hội nhập; quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực, bản lĩnh trong xử lý, ứng phó với các tranh chấp trong thương mại quốc tế.  Đồng thời, cần chủ động nâng cao năng lực thể chế, xây dựng chính sách trong nước theo kịp các cam kết của hội nhập và sự thay đổi của môi trường quốc tế; nâng cao năng lực thực thi trên tinh thần lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ.

Tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện Đề án

Để đẩy nhanh hơn nữa tiến độ triển khai công tác tổng kết, đề nghị Ban Chỉ đạo và Tổ biên tập khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ sau đây:

Trên cơ sở tình hình trong nước và thế giới và khu vực, và kết quả 10 năm triển khai Nghị quyết 22, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện Đề án, tham mưu cấp có thẩm quyền ban hành văn bản chỉ đạo với hình thức phù hợp về hội nhập quốc tế trong tình hình mới.

Bộ Ngoại giao, Cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo, khẩn trương xây dựng lộ trình, phân công nhiệm vụ cụ thể, khả thi, hiệu quả cho các cơ quan thành viên, có tham khảo ý kiến các chuyên gia, đối tượng chịu tác động trong quá trình xây dựng Đề án; sớm hoàn thành hồ sơ Đề án bảo đảm chất lượng, bài bản, khoa học, báo cáo Ban Chỉ đạo để trình Bộ Chính trị trong tháng 11 năm 2023.

Các ban, bộ, ngành, địa phương, hiệp hội căn cứ chức năng nhiệm vụ của mình đóng góp chất lượng, thực chất và kịp thời vào việc xây dựng Đề án.

Phóng viên: Xin bà đánh giá vai trò và vị trí của Việt Nam trong quá trình xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN?

Bà Phạm Quỳnh Mai: Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN ngày 28 tháng 07 năm 1995 tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28. Đây là bước ngoặt quan trọng, đánh dấu sự kết thúc giai đoạn khó khăn, thăng trầm, giúp đất nước ta thoát khỏi thế bao vây cấm vận lúc bấy giờ và mở ra thời kì hòa nhập cùng phát triển ở Đông Nam Á. Có thể nói gia nhập ASEAN chính là bước đi đầu tiên của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. ASEAN là cửa ngõ và then chốt cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam.

Ngay từ khi gia nhập, Việt Nam đã chủ động tham gia tích cực vào các hoạt động chung của ASEAN, đặc biệt là các hoạt động hợp tác kinh tế. Thúc đẩy việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) luôn là một trong những ưu tiên cao nhất của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cùng với các nước ASEAN, Việt Nam đã nỗ lực triển khai các cam kết, sáng kiến, đặc biệt là các biện pháp ưu tiên nhằm thực hiện Kế hoạch tổng thể xây dựng AEC hướng tới mục tiêu thành lập AEC. Với nỗ lực này, ngày 31 tháng 12 năm 2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN đã được hình thành với mục tiêu biến ASEAN thành một thị trường chung và một cơ sở sản xuất đơn nhất, trong đó, hàng hóa, dịch vụ và đầu tư được tự do luân chuyển trong nội khối ASEAN với mức độ tự do hóa thuế quan lên tới khoảng 98 - 99%, các gói cam kết tự do hóa thương mại dịch vụ được thực thi, tạo nên một khu vực thương mại tự do với môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh và hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Việt Nam đã cùng với các nước ASEAN thúc đẩy hợp tác kinh tế sâu rộng với các Đối tác Ngoại khối như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Ốtxtrây-li-a, Niu Di-lân, Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu, Ca-na-đa, Vương quốc Anh ... đặc biệt đã ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa ASEAN với một số Đối tác trên như: FTA ASEAN - Trung Quốc, FTA ASEAN - Nhật Bản, FTA ASEAN - Hàn Quốc, FTA ASEAN - Ấn Độ, FTA ASEAN - Ốtx-trây-lia - Niu Di-lân, FTA ASEAN - Hồng Kông (Trung Quốc), giúp tăng trưởng thương mại và hợp tác kinh tế giữa ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng, duy trì vai trò trung tâm của ASEAN trong quan hệ hợp tác với các Đối tác này.

Năm 2020, với việc Việt Nam là Chủ tịch ASEAN và đảm nhiệm vai trò thúc đẩy việc hình thành Cộng đồng Kinh tế ASEAN, ta đã cùng các nước thành viên phát huy tinh thần “Gắn kết và Chủ động thích ứng” với hàng trăm cuộc họp được tổ chức thành công theo hình thức trực tuyến đồng thời đề xuất nhiều sáng kiến nhằm tạo điều kiện củng cố chuỗi cung ứng khu vực, khắc phục hậu quả tiêu cực do đại dịch Covid-19 gây ra đối với nền kinh tế, tiêu biểu như Kế hoạch phục hồi tổng thể ASEAN, Kế hoạch hành động Hà Nội nhằm tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN và kết nối chuỗi cung ứng và Biên bản ghi nhớ (MOU) về việc xử lý các biên pháp phi thuế quan đối với hàng hóa thiết yếu.

Bên cạnh đó, trong vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 và Chủ tọa Hội nghị Bộ trưởng RCEP, Việt Nam đã tích cực, chủ động phối hợp, từ cấp kỹ thuật đến cấp Bộ trưởng, với các nước ASEAN và các nước đối tác, để tìm giải pháp và thúc đẩy đồng thuận nhằm xử lý các vấn đề vướng mắc trong đàm phán, dẫn đến việc ký kết thúc hoàn toàn đàm phán Hiệp định và ký kết Hiệp định vào ngày 15 tháng 11 năm 2020. Đây là một nỗ lực rất lớn trong năm Chủ tịch ASEAN 2020 của Việt Nam, được các nước ASEAN và đối tác đánh giá cao, góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và quốc tế.

Trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì định hướng hội nhập ASEAN là một trong những ưu tiên trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, khẳng định tinh thần chủ động, năng động trong việc triển khai các sáng kiến thực hiện Cộng đồng Kinh tế ASEAN, góp phần tăng cường sự gắn kết chặt chẽ, phát huy tố chất của một khu vực kinh tế ASEAN năng động, khẳng định vai trò trung tâm trong hợp tác kinh tế ở khu vực.

Phóng viên: Làm thế nào để các chính sách kinh tế của Cộng đồng ASEAN mang lại những hiệu quả thiết thực cho người dân?

Bà Phạm Quỳnh Mai: Trước tiên phải khẳng định rằng sau 27 năm gia nhập ASEAN, kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi vượt bậc về mọi mặt so với những ngày đầu gia nhập ASEAN. Cụ thể, GDP bình quân đầu người tăng hơn 13 lần, quy mô nền kinh tế tăng hơn 17 lần từ GDP 20,7 tỷ USD năm 1995 lên 362,6 tỷ USD vào năm 2021, đứng thứ sáu trong khu vực ASEAN tính theo GDP danh nghĩa (thứ 3 nếu tính theo sức mua tương đương, chỉ sau In-đô-nê-xia và Thái Lan). Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng từ 5,2 tỷ USD vào năm 1995 lên 336,3 tỷ USD vào năm 2021.

Hội nhập kinh tế ASEAN là nền tảng vững chắc cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, góp phần quan trọng mang lại sự phát triển kinh tế vượt bậc của đất nước ta trong những năm qua, giúp gia tăng xuất khẩu và mở rộng cơ hội hợp tác cho các doanh nghiệp, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân, tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động, người dân được tiếp cận và mua sắm các hàng hóa đa dạng về chủng loại, mẫu mã, chất lượng với giá cả hợp lý từ các nước trên thế giới. Như vậy, có thể thấy, việc thực thi các cam kết hợp tác trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực cho đất nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam nói riêng và ASEAN nói chung.

Chúng ta có thể đạt được kết quả này là do trong quá trình xây dựng chính sách hội nhập kinh tế của Cộng đồng Kinh tế ASEAN, Chính phủ luôn tham vấn chặt chẽ các Bộ, ngành và cộng đồng doanh nghiệp để đảm bảo quá trình xây dựng

AEC luôn bám sát lợi ích của đất nước, doanh nghiệp và người dân. Đồng thời, Chính phủ đã và đang thực hiện nhiều nhóm giải pháp để tận dụng tối đa những lợi ích mà hội nhập kinh tế ASEAN nói riêng, hội nhập kinh tế quốc tế nói chung mang lại cho doanh nghiệp và người dân. Trên thực tế, nhiều nội dung đã được triển khai hiệu quả tới nay, chẳng hạn như: - Để phổ biến về Cộng đồng Kinh tế ASEAN và hội nhập kinh tế quốc tế, Chính phủ đã có chương trình truyền thông được triển khai từ năm 2010 đến nay, cung cấp nhiều sổ tay hương dẫn, tài liệu tham khảo, tổ chức các khóa đào tạo, hội thảo liên tục hàng năm ở các tỉnh, thành phố trên cả ba miền đất nước để phổ biến, cập nhật thông tin về Cộng đồng Kinh tế ASEAN cho cộng đồng doanh nghiệp và cơ quan quản lý địa phương. - Để tăng cường năng lực trong nước nhằm vận dụng các cơ hội của hội nhập kinh tế, Chính phủ đã triển khai các nhóm giải pháp ở nhiều phương diện: i) nhóm giải pháp về phát triển thị trường và thương hiệu (mở rộng thị trường xuất khẩu và thị trường nội địa cho doanh nghiệp, xây dựng thương hiệu sản phẩm, doanh nghiệp, ngành, quốc gia); ii) nhóm giải pháp tổ chức lại sản xuất nhằm nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng, năng lực cạnh tranh (như chuyển đổi phương thức sản xuất từ nhỏ, phân tán sang lớn, tập trung, từ gia công sang các công đoạn có giá trị cao hơn); iii) nhóm giải pháp về hỗ trợ doanh nghiệp (xúc tiến thương mại, nghiên cứu và dự báo thị trường, đổi mới công nghệ, bảo vệ thương hiệu, đào tạo nhân lực, phát triển cơ sở hạ tầng và cải thiện môi trường kinh doanh); nhóm giải pháp tăng cường vai trò hỗ trợ và liên kết của các hiệp hội ngành hàng ...

Về phần mình, doanh nghiệp và người dân cần có sự chủ động chuẩn bị và phối hợp với Chính phủ như sau: Chủ động tiếp cận, tìm hiểu thông tin về Cộng đồng Kinh tế ASEAN, đặc biệt các cam kết về tự do hóa thương mại hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam và các nước ASEAN thông qua trang thông tin điện tử của các cơ quan Chính phủ liên quan, bao gồm Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Công Thương và các Bộ, cơ quan ngang Bộ tham gia công tác Cộng đồng Kinh tế ASEAN. Chủ động nắm bắt các cam kết cụ thể về hội nhập ASEAN liên quan đến lĩnh vực kinh doanh của mình nhằm xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh phù hợp để có thể khai thác tối đa lợi ích do Cộng đồng Kinh tế ASEAN mang lại. Chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh, nâng cao khả năng thích ứng với tiêu chuẩn trong khu vực ASEAN, tận dụng công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, khả năng kết nối mở rộng hợp tác trong khu vực.