Các Làng Nghề Thủ Công Truyền Thống Việt Nam

Các Làng Nghề Thủ Công Truyền Thống Việt Nam

Ở Việt Nam có nhiều nghề thủ công truyền thống, tiêu biểu là một số nghề như: nghề gốm, nghề mây tre đan, sơn mài, khảm trai...

Ở Việt Nam có nhiều nghề thủ công truyền thống, tiêu biểu là một số nghề như: nghề gốm, nghề mây tre đan, sơn mài, khảm trai...

Làng nghề mộc thủ công mỹ nghệ Chàng Sơn – Hà Nội

Nghề thủ công truyền thống làm mộc nằm ở thôn Chàng Sơn, huyện Thạch Thất, Hà Nội, đã có lịch sử nghìn năm tuổi và được công nhận là “Làng nghề truyền thống tiêu biểu Việt Nam”.

Làng nghề truyền thống Chàng Sơn có chữ “Chàng” mang tên của một dụng cụ để làm nghề mộc. Nơi đây sử dụng đa dạng gỗ để chạm khắc kiến trúc, nội thất, đồ thờ cúng, làm nhà, tạo tác đồ gỗ cao cấp ( bàn ghế, sập, tủ, đôn,..) và tạc tượng gỗ các lọai.

Sản phẩm chạm khắc gỗ ở làng nghề thủ công này có nhiều chi tiết phức tạp, tinh xảo nên nguyên liệu làm ra sản phẩm phải được tuyển chọn kỹ càng, đáp ứng yêu cầu về mặt chất lượng như có vân thớ đẹp, lỗ mạch nhỏ, không bị mối mọt, ít cong vênh,… Hơn thế nữa, nghề thủ công này cũng đòi hỏi người thợ phải có sức khoẻ và tay nghề cao.

Làng nghề mộc truyền thống Chàng Sơn có tác phẩm nổi tiếng ”18 vị La Hán chùa Tây Phương” vô cùng tinh xảo, công phu, sống động, được kết hợp hài hòa trong vật liệu, kết cấu, hình khối, được coi là đỉnh cao nghệ thuật điêu khắc đương thời.. Các sản phẩm nghề truyền thống thường có hoa văn độc đáo, nét chạm trổ thủ công cổ kính và hiện đại, góp phần làm phong phú đồ thủ công truyền thống Việt Nam.

Giống như ở các làng nghề truyền thống khác, Chàng Sơn luôn có không khí lao động sản xuất hăng say, nhộn nhịp, nhưng sản phẩm ở đây luôn có nét chạm khắc tỉ mỉ, tinh xảo, luôn được các nghệ nhân thổi hồn vào những nét chạm khắc khiến chúng uyển chuyển chứ không thô kệch, cứng nhắc, điều này làm cho làng nghề thủ công Chàng Sơn có thể tồn tại và phát triển cho đến bây giờ.

Làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ

Làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ tọa lạc tại Chương Mỹ, Hà Nội, mang đậm bản sắc truyền thống từ thời nhà Lý. Với hơn gần nghìn năm lịch sử, nghề khảm trai Chuôn Ngọ vẫn ngày càng phát triển, tạo ra những sản phẩm nghệ thuật tinh tế và độc đáo.

Đặc trưng của tranh khảm trai Chuôn Ngọ là những mảnh trai không vỡ, vững chắc gắn kết với gỗ một cách tinh tế. Chi tiết trang trí trên khảm trai rất sinh động và độc đáo, là đỉnh cao của nghệ thuật khảm trai. Bằng đôi bàn tay khéo léo, những nghệ nhân tài năng tạo nên những kiệt tác nghệ thuật làm nên danh tiếng của làng nghề khảm trai Chuôn Ngọ. Mảnh trai, ban đầu vô tri vô giác, trở thành những tác phẩm nghệ thuật mang giá trị văn hóa cao.

Nghề khảm trai được truyền bá từ thế hệ này sang thế hệ khác, qua bàn tay tài năng và lòng đam mê của những nghệ nhân. Sự kế thừa và phát triển đã giữ vững vị thế của làng nghề này trong lòng người yêu nghệ thuật.

Làng nghề truyền thống dệt vải Khuôn Thê

Trong số các nghề truyền thống, nghề dệt vải được nhiều dân tộc thiểu số ở các vùng miền lưu giữ nhất, trong đó phải kể đến nghề dệt truyền thống của dân tộc Nùng ở thôn Khuôn Thê, xã Phúc Ứng, Sơn Dương.

Điểm đặc biệt ở làng truyền thống này là các bộ khung dệt vải đã có từ rất lâu, cây thoi và bộ khung cửi làm từ gỗ rừng, tre hay nứa đều nhẵn bóng theo thời gian.

Làng nghề truyền thống Khuôn Thê sử dụng nguyên liệu dệt vải do người dân tự trồng lấy. Cây bông được trồng trên các triền núi thấp, thu hoạch và quay vòng se thành sợi. Việc tự trồng bông, dệt vải cho gia đình từ lâu đã trở thành thói quen của người dân nơi đây, các bé gái trong vùng khi lớn lên đã được dạy cho dệt vải. Các bà, các mẹ đều biết dệt và dệt rất khéo vì từ nhỏ đã quen thuộc với bộ áo chàm và khung dệt.

Các nghề thủ công nói chung đều yêu cầu sự tỉ mỉ và kiên trì, công đoạn se sợi và lên khung là kì công nhất, cán bông và se sợi đòi hỏi sự tỉ mỉ, chú tâm mới tạo ra những sợi chỉ đều và đẹp. Công đoạn dệt nên một tấm vải cũng mất vài ngày.

Ngành nghề truyền thống dệt vải ở Khuôn Thê có cách nhuộm màu vải rất đặc biệt. Người dân thu hái cây chàm về ngâm trong chum nước hàng tháng trời cho đến khi lá nhàu nát, chắt lọc lấy nước trộn với ít vôi, nhân hạt đào phai giã nát và khuấy đều để tạo hỗn hợp nước màu xanh lam đậm hay còn gọi là màu chàm. Ngâm vải trong chàm, mỗi ngày vớt ra phơi và ngâm lại hai lần, liên tục trong khoảng một tháng cho bền màu.

Khi đã có tấm vải người Nùng thêu thêm hoa văn trang trí rồi mới may thành quần áo, chăn, túi xách, khăn đội đầu,… Các hoạ tiết trang trí trong nghề thủ công truyền thống ở Khuôn Thê thường rất đơn giản, chủ yếu là các hình tròn, bố cục cân xứng, mô phỏng mặt trời ngôi sao màu sắc rực rỡ.

Nghề truyền thống ở Việt Nam không nhiều, đặc biệt nghề dệt ở Khuôn Thê đang dần mai một vì các sản phẩm công nghiệp đa dạng và giá rẻ hơn, nhưng cùng với tiếng nói, điệu hát, trang phục và các nét văn hoá đặc trưng của dân tộc Nùng đã và đang được khôi phục.

Những tấm vải dệt tay từ làng Khuôn Thê là sự kết nối giữa các thế hệ với nhau và là sợi chỉ giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, xứng đáng là một trong những làng nghề thủ công truyền thống ở Việt Nam.

Làng Chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình)

Truyền thống nghề chạm bạc Đồng Xâm rộng lớn từ thế kỷ 15. Dân chúng kể lại câu chuyện của một người đàn ông từ Châu Bảo Lạc đến truyền nghệ cho làng. Vào năm 1428, cụ Nguyễn Kim Lâu chính là nhà sáng lập làng, tạo ra cơ sở hạ tầng cho 7 chi phường và 149 thợ. Thời kỳ hoàng kim nhất, nghệ nhân Đồng Xâm vươn ra khắp đất nước, làm nghệ thuật trang trí cho Huế và thậm chí là lập nên phố Hàng Bạc ở Hà Nội.

Ngày nay, Đồng Xâm nổi tiếng với ba dòng sản phẩm chính: trang sức bạc, mỹ nghệ và đồ thờ cúng. Trang sức bạc đa dạng từ dây chuyền, nhẫn, hoa tai đến vòng cổ, lắc, vòng tay, được làm từ bạc. Sản phẩm đồ thờ cúng như đỉnh, vạc, lư hương, đĩa quả, chân đèn, ngai… cũng là điểm mạnh được ưa chuộng. Đặc biệt, sản phẩm bạc Đồng Xâm thu hút khách hàng bởi hình khối, thiết kế tinh tế và sự sáng tạo trong xử lý ánh sáng - bóng của chất liệu bạc. Điểm đặc trưng của sản phẩm chính là sự tinh tế và hoàn hảo, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng khó tính.

Làng nghệ điêu khắc gỗ Kim Bồng (Hội An – Quảng Nam)

Kim Bồng - làng nghệ điêu khắc gỗ nổi tiếng từ thời xa xưa. Được sáng lập từ thế kỷ 15 bởi ông Tổ, người Thanh Hóa di cư đến đất Kim Bồng, nay thuộc phường Cẩm Kim, thành phố Hội An. Phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ 17, nghề mộc Kim Bồng trở thành làng nghề đa dạng với ba nhóm nghề chính: xây dựng, đồ nội thất và đóng tàu thuyền mộc.Nghệ nhân làng mộc Kim Bồng tự hào với công trình cha ông được vua chúa nhà Nguyễn mời về xây dựng và tôn tạo các công trình thành quách, lăng tẩm. Nghề mộc ở đây hòa trộn nét độc đáo từ miền Bắc, nghệ thuật chạm khắc của người Chăm, Trung Hoa và Nhật Bản, tạo nên những tác phẩm điêu khắc gỗ phong cách và sâu sắc về mỹ thuật và triết học.

Các tác phẩm điêu khắc gỗ của Kim Bồng đã trải bày vẻ đẹp tinh tế trong nhiều gia đình và quốc gia trên thế giới.

Làng gốm Thổ Hà (Bắc Giang)

Trải qua hơn 7 thế kỉ phát triển, nghề gốm tại Thổ Hà đã ghi dấu ấn với vẻ đẹp độc đáo từ thế kỉ 14. Là một trong ba trung tâm gốm sứ cổ xưa nhất ở Việt Nam, cùng với Phù Lãng (Quế Võ, Bắc Ninh) và Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), Thổ Hà nổi tiếng với sản phẩm gốm sành cao, chống thấm nước, âm thanh như chuông, màu men nâu đỏ mịn màng, tạo cảm giác ấm cúng và thân thuộc. Những sản phẩm này bền vững với thời gian, có thể chôn trong đất, ngâm trong nước vẫn giữ được độ bền vĩnh cửu.

Làng gốm Thổ Hà tập trung chủ yếu vào sản xuất đồ gốm gia dụng như chum vại, tiểu sành, chĩnh chõ, từng là những sản phẩm nổi tiếng. Các mảnh gốm xưa được bảo quản trên bức tường như những tác phẩm nghệ thuật, giữ lại hồn gốm qua thời gian.